Chân Phương
登樂遊原
向晚意不適,
驅車登古原。
夕陽無限好,
只是近黃昏。
驅車登古原。
夕陽無限好,
只是近黃昏。
ĐĂNG LẠC DU NGUYÊN thơ Lý
Thương Ẩn (812?-858)
Hướng vãn ý bất thích,
Khu xa đăng cổ nguyên
Tich dương vô hạn hảo
Chỉ thị cận hoàng hôn
Hướng vãn ý bất thích,
Khu xa đăng cổ nguyên
Tich dương vô hạn hảo
Chỉ thị cận hoàng hôn
LÊN ĐỒI LẠC DU Chân Phương dịch
Chiều xuống, lòng sầu muộn;
Giục xe lên bình nguyên.
Ô! tà dương đẹp tuyệt!
Lúc sắp lặn vào đêm...
LÊN ĐỒI LẠC DU
Nguyễn Lãm Thắng dịch
Chiều về, lòng chẳng
được vui
Đi xe lên tận vùng đồi cổ xưa
Nắng chiều sáng đẹp ghê chưa?
Cũng đang là lúc trời vừa hoàng hôn.
Đi xe lên tận vùng đồi cổ xưa
Nắng chiều sáng đẹp ghê chưa?
Cũng đang là lúc trời vừa hoàng hôn.
LE PLATEAU LE-YOU F. Cheng dịch
Vers le soir, quand vient la mélancolie
En carrosse sur l’antique plateau
Rayons du couchant infiniment beaux
Trop brefs hélas, si proche de la nuit
LO-YU HEIGHTS James J.Y. Liu dịch
Toward evening I feel disconsolate;
So I drive my carriage up the ancient heights.
The setting sun has infinite beauty ---
Only, the time is approaching nightfall!
THE LO-YU TOMBS Witter Bynner dịch
With twilight shadows in my heart
I have driven up the Lo-yu tombs
To see the sun, for all its glory,
Buried by the incoming night.
THE LO-YU TOMBS Robert Payne
dịch
(hợp tác với một dịch giả Trung Hoa)
Feeling fretful toward evening,
I drove my chariot to the Lo-yu tombs.
How infinitely lovely was the setting sun –
Only it is so near the yellow dusk!
Nhờ có hơn một
bản dịch Anh ngữ, độc giả
được dịp tìm hiểu thêm về nghề
dịch thơ - vừa linh động vừa phóng khoáng. W.Bynner
phóng dịch bài này, ngay từ tên bài LẠC DU NGUYÊN mà ông
dịch là khu mộ (tombs), dù chữ NGUYÊN đa nghĩa có
khi cũng được hiểu là mộ phần. Hai
học giả kiêm dịch giả gốc Hoa dịch từ
này là HEIGHTS (James Liu), là PLATEAU (François Cheng)- tiếng Việt
là Bình Nguyên, vùng đất phẳng cao. Câu đầu”Hướng
vãn ý bất thích” mà dịch thành “with twilight shadows in my
heart” là dịch bay bướm như một nhà thơ. F.
Cheng (hàn lâm viện sĩ Pháp) dịch ra “Vers le soir, quand
vient la mélancolie (Chiều xuống, lòng sầu muộn); James
Liu dịch là “ Toward evening, I feel disconsolate (Chiều về,
lòng khó giải khuây) - cách hiểu này rất gần với
câu “Feeling fretful toward evening” trong một bản dịch Anh
ngữ khác của Robert Payne.
Dịch thuật là một phép lạ
nhỏ; dịch giả ý thức rằng mỗi thể
thơ hàm chứa khả tính ngôn ngữ đặc thù . So sánh hai bản dịch sang tiếng
Việt vừa đối chiếu với bản gốc,
người đọc có thể cảm nhận độ
lệch ngữ nghĩa giữa bài ngũ ngôn tứ
tuyệt dựa thể luật của nguyên tác với bài
thơ dịch theo điệu lục bát. Thể 6/8 hào phóng
ngôn từ cho phép người dịch vừa bám sát nghĩa
vừa cải tả nội dung (paraphrase), nhưng phần
nào đánh mất tính cô đúc kiệm từ của
khổ thơ bốn câu năm chữ. (Không cần
phải nói thêm : đây là một đặc tính cốt lõi
của thi ngôn Đông Á). Rõ ràng một điều,
người VN hiểu tiếng Pháp, tiếng Anh sẽ
thấy được lợi thế đồng văn
của tiếng Việt khi dịch thơ Trung Hoa. Các
dịch giả Anh, Pháp, Đức… dù tài nghệ
đến đâu cũng khó chuyển được cái
thần của Hán ngôn sang tiếng mẹ của họ.
Thêm nhận xét cuối về các bản dịch trên đây;
chỉ thấy nhà thơ kiêm hàn lâm viện sĩ François Cheng là
có cố gắng dùng thi luật Pháp (decasyllables:mười
âm tiết với cước vận) để dịch bài
thơ của Lý Thương Ẩn.
***
Hoàng hôn là
khoảnh khắc tràn đầy thi tính đã
được nhiều nhà thơ Đông Tây kim cổ
mượn làm tứ thơ. Giới yêu thơ
Đường làm sao quên được câu thơ Lý
Bạch: Lạc nhật cố nhân tình; hay các bài
tuyệt tác Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu,
Vạn Tuế Lâu của Vương Xương Linh. Mê
thơ Pháp ai mà chẳng biết bài Harmonie du Soir
của Baudelaire hoặc thi tập Les Chants du Crépuscule của
Victor Hugo. Nhà thơ Ý Dino Campana với bài Giardino Autumnale (Vườn
Thu) cũng đã viết ra mấy câu xuất thần vào
phút tịch dương (tham khảo Chân Phương, Bên
lề một bản dịch, trên mạng ăn mày
văn chương).
Trở
lại với bài thơ của Lý Thương Ẩn. Đây
là một trong những bài tứ tuyệt trứ danh,
vừa ngợi ca cái đẹp vừa ý thức tính phù du
của cái đẹp. Mỹ học của khoảnh
khắc là sở trường của nhiều thi nhân Á
Đông, đặc biệt thơ Đường hay
thơ Thiền Nhật Bản, Cao Ly, Việt Nam...Nó đã
ăn sâu vào văn hóa như truyền thống ngắm hoa
anh đào hoặc trăng sơ huyền bên Nhật. Ở
đây, có thể dẫn chứng một vài câu của Saigyo
(Tây Hành):
ở
Yoshino
mỏi
bước lữ hành
tôi
thiếp đi dưới một gốc cây
được
ngọn gió xuân
gom
đắp trên người tấm chăn hoa rụng
**
mặt
trăng không tì vết
bỗng
bóng tối quét ngang
ngỡ là
một áng mây
té ra là
bầy ngỗng
Những
khoảnh khắc đẹp nhưng phù du tương
ứng với kiếp người phù thế; mối duyên
tình thắm thiết đến đâu cũng phải
hạ màn! Mời các bạn đọc lại bài
Triệu Thôn Hồng Hạnh ( Hoa hạnh đỏ thôn
Triệu) của Bạch Cư Dị:
Triệu
thôn hạnh đỏ từng năm nở,
Hơn
chục năm nay vẫn ngắm hoài.
Ông lão
bảy ba khôn trở lại;
Năm này
thăm hạnh để chia tay!
Dù yêu thích thi
phú hay không, loài người chúng ta sinh ra một lần trên
quả đất rồi tuần tự ra đi. Giữa
mỗi cá nhân với trần thế diễn ra một cuộc
hẹn diễm ảo lâm ly mà nghệ thuật cùng tôn giáo vẫn
tiếp tục trầm tư sau khi vầng dương
lặn và ánh trăng mọc trên các nghĩa trang:
MÙA
HẸN - thơ Lê Đạt
Hoa mùa
hẹn mimosa ùa nở
Lỡ
thề đêm một úa nhớ vàng
hoe
THAM KHẢO
- Bynner Witter,The Jade Mountain , Vintage
Books, 1972
- Cheng François, L’Ecriture poétique chinoise,
Seuil,1996
- Liu James, The Poetry of Li Shang-Yin, U.of Chicago Press, 1969
- Payne Robert,ed.,The White Pony, Mentor Books,1960
- Saigyo, Mirror for the Moon,New
Directions,1978
- Trần Trọng San, Thơ
Đường I,II,Bắc Đẩu,1970,1972
No comments:
Post a Comment