patrick modiano dailymotiontrick modiano fleklarsfeld patrick mianPo
Ecrivain Français
Patrick MODIANO
Patrick MODIANO
NOBELVănHọc-2014
Nghe tin mừng Patrick MODIANO vừa được trao Nobel -
đây cũng là vinh dự lớn cho nền văn học Pháp với 15 Nobel Văn Học - tôi lục tìm trong mấy kệ sách nhà mớ tiểu
thuyết của Modiano để đọc lại. Thấy thiếu mấy cuốn - có lẽ cho mượn
hay tặng bạn - tôi lái xe về Cambridge ghé nhà sách ngoại văn Schoenhof’s hi vọng tìm được vài đầu
sách. Nhưng đã muộn, dân ghiền sách hoặc mê văn chương Pháp đã mua hết
mọi trước tác của nhà văn Tân-Nobel; chỉ còn duy nhất một quyển suy
nghiệm về lịch sử khô khan ... Bèn quay về nhà, ngồi cạnh lò sưởi
nhỏ với La Place de L'Etoile vừa
nhâm nhi rượu vang cho qua đêm dài lập thu.
Sinh năm 1945 ở ngoại ô
Paris ông bỏ đại học văn khoa sau năm dự bị và theo nghiệp văn bút từ
đó. Tiểu thuyết đầu tay LA PLACE DE L' ETOILE gây sự chú
ý với giải Roger Nimier 1968; tiếp theo là LA RONDE DE
NUIT và LES BOULEVARDS DE CEINTURE - ba cuốn truyện ông viết một
hơi trong 5 năm thành bộ tam thiên (trilogie) về
giai đoạn nước Pháp bị Hitler chiếm đóng. Đây sẽ là chủ đề xuyên
suốt các trước tác về sau của Patrick Modiano. Giải Goncourt năm 1978
với tiểu thuyết RUE DES BOUTIQUES OBSCURES cùng giải Văn Chương Quốc Gia Grand Prix National des Lettres năm
1996 cho toàn bộ văn nghiệp là vài dấu mốc vinh quang trong cuộc đời
của một văn hào bị phân thân liên tục giữa ký ức, bản sắc và số
phận con người thăng trầm theo các biến động lịch sử.
Làm thơ từ lúc 9, 10 tuổi Patrick
Modiano cũng có viết vài ca khúc.
Bài đầu tiên của ông đặt lời là "Étonnez-moi
Benoit" được Françoise Hardy hát http://www.youtube.com/watch?v=nAsu2j05YCg năm 1968. Nhưng
máu văn chương đã lôi ông vào thế giới tiểu thuyết từ thuở 15 tuổi
với nhiều phác thảo bỏ dở; cho đến mùa hè 1966 khi ông viết một
mạch bản thảo La Place de l’Etoile
và dứt điểm vào dịp Giáng Sinh. Đứa con đầu được nhà Gallimard xuất
bản năm 1968 giúp cho tác giả nó đủ tự tin để sáng tác ngay sau đó La Ronde de nuit – phát hành năm kế
tiếp. Cuốn sau này là một kiệt tác ngắn với cốt truyện và tình
tiết tập trung quanh nhân vật mang bí danh Lamballe, vừa làm mật vụ
Gestapo Pháp vừa tham gia kháng chiến nội thành Paris, một loại tính
cách nhị trùng cộng bệnh lý lịch sử-văn hóa mà Modiano sẽ dàn dựng
và đào sâu trong chuỗi tác phẩm hư cấu của mình - chẳng hạn nhân vật Lucien
Lacombe, phim truyện sau này Louis Malle sẽ đạo diễn thành công theo
kịch bản cùng tên của Modiano, La Ronde de nuit đưa
chàng nhà văn 23 tuổi lúc ấy vào danh sách các ngòi bút sáng giá
của tạp chí uy tín Le Magazine Littéraire khi tổng kết 40 văn học thế giới
1966-2006. Bài nói chuyện giữa tác giả với tạp chí năm 1969 chung
quanh hai cuốn truyện đầu tay cũng được đăng lại trong số báo đặc
biệt này:
Ảnh chụp Patrick Modiano năm 1969 trên Le Magazine Littéraire. |
Jean Montalbetti: Có liên hệ gì giữa hai quyển sách?
Patrick Modiano : La Place de l'Étoile là bài toán do thái và chỉ có vậy. La Ronde de nuit không chỉ là nước Pháp thời Vichy. Khi viết, tôi lợi dụng không khí Paris dưới ách chiếm đóng, nhưng tôi đồng thời không muốn truyên kể của tôi bị ràng buộc vào một thời điểm. Trong cả hai cuốn, bao giờ cũng là sự tìm kiếm bản sắc. Cuốn đầu là bản sắc do thái, còn cuốn sau là sự trốn chạy bản năng khỏi mọi định hình bản sắc. Sự việc diễn ra trong một khung cảnh đạo lý, nhưng nhân vật của nó là một kẻ hoàn toàn thiếu tính chất đạo lý.
JM : Tại sao ông quyến luyến với một thời kỳ khi mà ông chưa có mặt trên đời ?
PM : Đó là một thế giới trong đó tôi tìm thấy tất cả những gì ám ảnh mình - dù tôi không được biết nó. Sau ngày chiến tranh kết thúc, ta đã thấy hình thành một xã hội nhập nhằng đầy bọn trục lợi và đám thất thế. Trong thế giới ấy tôi tìm lại thứ cảm giác tôi thường xuyên có trong người là sự chông chênh không tìm ra điểm tựa. Lại còn một bầu khí công an của sự băng hoại luân thường. Khi tôi nghĩ đến giai đoạn Đức chiếm đóng, điều tôi lưu tâm không phải tính cách anh hùng ở vài người mà là sự thối nát và đớn hèn của đại đa số.
Patrick Modiano : La Place de l'Étoile là bài toán do thái và chỉ có vậy. La Ronde de nuit không chỉ là nước Pháp thời Vichy. Khi viết, tôi lợi dụng không khí Paris dưới ách chiếm đóng, nhưng tôi đồng thời không muốn truyên kể của tôi bị ràng buộc vào một thời điểm. Trong cả hai cuốn, bao giờ cũng là sự tìm kiếm bản sắc. Cuốn đầu là bản sắc do thái, còn cuốn sau là sự trốn chạy bản năng khỏi mọi định hình bản sắc. Sự việc diễn ra trong một khung cảnh đạo lý, nhưng nhân vật của nó là một kẻ hoàn toàn thiếu tính chất đạo lý.
JM : Tại sao ông quyến luyến với một thời kỳ khi mà ông chưa có mặt trên đời ?
PM : Đó là một thế giới trong đó tôi tìm thấy tất cả những gì ám ảnh mình - dù tôi không được biết nó. Sau ngày chiến tranh kết thúc, ta đã thấy hình thành một xã hội nhập nhằng đầy bọn trục lợi và đám thất thế. Trong thế giới ấy tôi tìm lại thứ cảm giác tôi thường xuyên có trong người là sự chông chênh không tìm ra điểm tựa. Lại còn một bầu khí công an của sự băng hoại luân thường. Khi tôi nghĩ đến giai đoạn Đức chiếm đóng, điều tôi lưu tâm không phải tính cách anh hùng ở vài người mà là sự thối nát và đớn hèn của đại đa số.
( ...
)
JM : La
Ronde de nuit được ghi chú là tiểu
thuyết. Nhưng nơi trang 148 ông thú nhận rằng các nhân vật của mình
từng hiện hữu và được nêu đúng tính danh...Có phải đó chỉ là một
xão thuật?
PM : Tôi đã vận dụng một lối vọng
tưởng huyền thoại (mythomanie) để có thể trộn lẫn sự thực với hư cấu.
Cùng lúc tôi có cảm tưởng cách pha nhiễu này gây nên một thứ tâm
trạng bất ổn đáng lẽ không xảy ra nếu độc giả biết được chắc chắn họ
đang ở trong cõi tưởng tượng thuần túy hoặc là trong thực tế lịch
sử. Xin nói thêm, nhiều nhân vật lịch sử được nhắc đến đối với tôi
hầu như họ là huyền thoại...Tôi nhìn ngắm họ như những kẻ đi dây rất
quyến rũ. Tôi có cảm nghĩ mình sinh vào thời kỳ ấy, và khi nhắc
gợi các xung đột của họ tôi cũng được quay về nguồn cội của mình.
Tôi có vài kỷ niệm khó quên với PM;
ông là một trong số các nhà văn tôi khám phá sau tháng 4-75
trong những năm dài ngột ngạt về thông tin và tư tưởng ở VN. Cũng may
khả năng ngoại ngữ đã cho phép tôi ung dung ngao du trong thế giới chữ
nghĩa phương Tây trong khi ngoài đời các sách dịch văn học của Sài
Gòn trước đó bị tịch thu, kết án, hay lén lút chuyền tay...Trong
không khí bất an như thế, những trang văn trong La Place de l’Étoile hay La
Ronde de nuit lại mời mọc hơn
vì tính chất nhá nhem lịch sử, nhập nhằng nhân tính thời nước Pháp
bị Đức chiếm đóng – ít nhiều tương ứng với cả miền Nam lúc bấy giờ
vẫn bị quân quản và giới nghiêm cùng bọn thua trận mang trên người đủ
loại hóa trang để sống chung với phe thắng cuộc.
***
Rời khỏi VN sau này, tôi tiếp tục tìm đọc sáng tác mới của Modiano cũng như các biên khảo hoặc phê bình về nghệ thuật tiểu thuyết của ông, đặc biệt vào những dịp sang Pháp thăm mẹ vào mùa hè. Cho đến hôm nay ông đã cống hiến cho nền văn học - không riêng gì nước Pháp - 28 tác phẩm trong đó có cả hai tự truyện LIVRET DE FAMILLE và PEDIGREE để dựng lại chân dung nghệ thuật cho cha mẹ ông và chính quá trình hình thành nhà văn Patrick Modiano có người cha là một doanh nhân Ý-Do thái quảng giao với giới quí tộc thượng lưu Pháp và bà mẹ diễn viên kịch nghệ gốc Bỉ. Có thể nói toàn bộ sáng tác ấy xoay quanh nỗ lực phục chế quá khứ bằng cách hư cấu những nhân vật quay về chốn cũ tìm kiếm hình bóng một người thân thuộc như cha mẹ, người tình, hoặc chính bản thân trong dĩ vãng như kẻ mất trí điều tra tông tích mình qua các trang tiểu thuyết Rue des Boutiques obscures/Con Đường của những Cửa Tiệm âm u được giải Goncourt 1978... Mối ám ảnh đó nằm cô đọng trong câu văn René Char mà Modiano đã mượn để mở đầu quyển tự truyện LIVRET DE FAMILLE :Vivre, c'est s'obstiner à achever un souvenir/ Sống là cố gắng ngoan cố để hoàn tất một kỷ niệm.
***
Rời khỏi VN sau này, tôi tiếp tục tìm đọc sáng tác mới của Modiano cũng như các biên khảo hoặc phê bình về nghệ thuật tiểu thuyết của ông, đặc biệt vào những dịp sang Pháp thăm mẹ vào mùa hè. Cho đến hôm nay ông đã cống hiến cho nền văn học - không riêng gì nước Pháp - 28 tác phẩm trong đó có cả hai tự truyện LIVRET DE FAMILLE và PEDIGREE để dựng lại chân dung nghệ thuật cho cha mẹ ông và chính quá trình hình thành nhà văn Patrick Modiano có người cha là một doanh nhân Ý-Do thái quảng giao với giới quí tộc thượng lưu Pháp và bà mẹ diễn viên kịch nghệ gốc Bỉ. Có thể nói toàn bộ sáng tác ấy xoay quanh nỗ lực phục chế quá khứ bằng cách hư cấu những nhân vật quay về chốn cũ tìm kiếm hình bóng một người thân thuộc như cha mẹ, người tình, hoặc chính bản thân trong dĩ vãng như kẻ mất trí điều tra tông tích mình qua các trang tiểu thuyết Rue des Boutiques obscures/Con Đường của những Cửa Tiệm âm u được giải Goncourt 1978... Mối ám ảnh đó nằm cô đọng trong câu văn René Char mà Modiano đã mượn để mở đầu quyển tự truyện LIVRET DE FAMILLE :Vivre, c'est s'obstiner à achever un souvenir/ Sống là cố gắng ngoan cố để hoàn tất một kỷ niệm.
Như Victor trở lại Thụy Sĩ, ký ức còn
vương mùi hương của Yvonne (Villa
Triste) hay bóng hình Carmen ám ảnh Jean hai mươi năm sau lúc quay về
mấy con phố Paris cũ (Quartier
Perdu), kẻ kể truyện thường đi tìm một phụ nữ của kỷ niệm - Louki (Dans le café de la jeunesse perdue), Jacqueline (Du plus loin que l'Oubli), ... Vì
nội dung các tác phẩm Modiano quay đi quay lại là sự truy tìm quá
khứ và những năm tháng đã biệt tăm, các độc giả của ông phần nào sẽ tán thành khi Peter Englund, thư ký văn phòng Nobel, xưng tụng Patrick Modiano là “Proust
của chúng ta hôm nay” khi thưởng thức những trang tả tình quyến luyến da diết không kém quan hệ Swann-Odette hay Marcel-Albertine thuở nào. Với giới sành văn chương diễm tình Pháp, sự mê đắm gần như hoang đường với mấy bóng hồng quá vãng đó còn nhắc lại mối ám ảnh tâm thần của Gérard de Nerval với các kiều nữ Aurélia, Sylvie, Adrienne... trong Les Filles du Feu.
Nhưng với kẻ chịu khó so sánh bút pháp với văn phong thì hai nhà văn là hai đối cực, Proust thì gặm nhấm ký ức trong từng câu dài lê thê quá kích thước ngữ pháp thông thường, Modiano lại ngắn gọn kiệm lời khi trao cho bối cảnh địa lý - thay vì ngữ cảnh- chức năng dàn dựng mọi thứ ám ảnh. Theo tôi, phong cách trần thuật gọn, khô, tránh phân tích tình cảm hay độc thoại nội tâm của tác giả rất gần với hai ngòi bút Marguerite Duras và Georges Simenon :
Ils sont devant l'hôtel, ils font les cent pas. Elle attend l'auto qui doit venir la prendre pour la mener place de la Paix. Il y a peu de monde. Mais les autos passent sans arrêt. C'est un boulevard. HIROSHIMA, MON AMOUR.
Quand il revient du métro, le boulevard ...était désert, et ses pas résonnaient...il pensait à l'homme qui, à cette heure, était peut-être encore à courir les rues, anxieux, évitant les coins sombres, cherchant un peu de sécurité dans les bars et les cafés.MAIGRET ET SON MORT.
Kỹ thuật dựng truyện phỏng theo thể loại hình sự của Modiano không chỉ giống Simenon về cách hành văn mà còn tương đồng về mẹo dàn dựng khung cảnh đặc thù tại Paris, London, vùng biển Normandie hay miền đồi núi Savoie-Thụy sĩ...Nhưng sự vật dù cụ thể đến đâu vẫn bị vây bọc bởi một màn sương hoài niệm gần như vô định của một Từ Thức thời đại như Jean Claude Raspiengas đã nhận định về Modiano, "éternel égaré dans le Paris des réminiscences/ kẻ thất lạc đời đời giữa Paris của các hồi tưởng".( La Croix, 3-10-2014). Nhưng kẻ thất lạc này là một phù thủy rành pháp thuật văn chương, biết huơ bút chụp bắt năm tháng đã qua và khiến cho các hồn ma hiện lại. Bí quyết ấy có khi đơn giản như một màn ảo thuật -
Nhưng với kẻ chịu khó so sánh bút pháp với văn phong thì hai nhà văn là hai đối cực, Proust thì gặm nhấm ký ức trong từng câu dài lê thê quá kích thước ngữ pháp thông thường, Modiano lại ngắn gọn kiệm lời khi trao cho bối cảnh địa lý - thay vì ngữ cảnh- chức năng dàn dựng mọi thứ ám ảnh. Theo tôi, phong cách trần thuật gọn, khô, tránh phân tích tình cảm hay độc thoại nội tâm của tác giả rất gần với hai ngòi bút Marguerite Duras và Georges Simenon :
Ils sont devant l'hôtel, ils font les cent pas. Elle attend l'auto qui doit venir la prendre pour la mener place de la Paix. Il y a peu de monde. Mais les autos passent sans arrêt. C'est un boulevard. HIROSHIMA, MON AMOUR.
Quand il revient du métro, le boulevard ...était désert, et ses pas résonnaient...il pensait à l'homme qui, à cette heure, était peut-être encore à courir les rues, anxieux, évitant les coins sombres, cherchant un peu de sécurité dans les bars et les cafés.MAIGRET ET SON MORT.
Kỹ thuật dựng truyện phỏng theo thể loại hình sự của Modiano không chỉ giống Simenon về cách hành văn mà còn tương đồng về mẹo dàn dựng khung cảnh đặc thù tại Paris, London, vùng biển Normandie hay miền đồi núi Savoie-Thụy sĩ...Nhưng sự vật dù cụ thể đến đâu vẫn bị vây bọc bởi một màn sương hoài niệm gần như vô định của một Từ Thức thời đại như Jean Claude Raspiengas đã nhận định về Modiano, "éternel égaré dans le Paris des réminiscences/ kẻ thất lạc đời đời giữa Paris của các hồi tưởng".( La Croix, 3-10-2014). Nhưng kẻ thất lạc này là một phù thủy rành pháp thuật văn chương, biết huơ bút chụp bắt năm tháng đã qua và khiến cho các hồn ma hiện lại. Bí quyết ấy có khi đơn giản như một màn ảo thuật -
"Les dimanches, surtout en fin d'après-midi,
et si vous êtes seul, ouvrent une brèche dans le temps. Il suffit de s'y
glisser./Nếu ta đơn độc, những ngày chúa nhật - nhất là lúc xế chiều - mở ra một khe hở thời gian. Ta chỉ cần lách mình vào." L'HERBE DES NUITS.
CHÂN PHƯƠNG
Hingham Bay, trung tuần October, 2014
No comments:
Post a Comment