ĐỌC THƠ TRÂN SA
Mùa hè năm nay nhàn hạ ,
tôi tìm trong mớ sách báo ngày trước đọc lại thơ văn các bạn đồng hành một dạo...Những
độc giả thuộc thế hệ di dân đầu sau biến động 4-75 và các đợt sóng thuyền nhân
chắc chưa quên trên mâ'y trang VĂN ( Mai Thảo), VĂN HỌC ( Võ Phiến, Ng. Mộng
Giác ) ...các bài thơ giàu sáng tạo của Ngu Yên, Lê Thị Huệ, Phạm Việt
Cường, Trân Sa, Thường Quán, Vũ Quỳnh Hương, Nguyễn Hoàng Nam, Nguyễn thị Thanh
Bình, Đỗ Kh...- những ngòi bút sẽ là nòng cốt cho các tạp chí hào hứng như HỢP
LƯU, TRĂM CON, TẠP CHÍ THƠ...lần lượt ra mắt văn đàn hải ngoại sau biến cố lịch
sử Bá Linh 1989. Ba mươi năm trôi nhanh
nhưng tôi vẫn nhớ cảm giác thích thú khi cầm trên tay tạp chí TRĂM CON do Trân
Sa cùng nhóm bạn Toronto, Canada chủ biên... như tôi từng đọc đi đọc lại các bài
thơ in trong Thơ TRÂN SA. Sau đó nữ thi sĩ còn tặng cho đời hai tập thơ tình ĐIỂM
TÂM CHO NGƯỜI TÌNH và CANH THỨC CÙNG THƠ MỘNG ( viết chung với Vũ Quỳnh
Hương , Lê Thị Huệ). Mời các bạn đọc bài nhận định của tôi về thơ Trân Sa
trên GIAO ĐIỂM ,mùa thu 1990 (tác giả có nhuận sắc trước khi cho đăng lại trên Mạng ) .
Hi vọng các vị biên
soạn thi tuyển Việt tương lai sẽ quan tâm và không bỏ sót những gương mặt như Trân Sa...
·
THƠ
TRÂN SA , Tập
Hợp xuất bản, Úc Châu, Jan.1989.
Tin
vui đã đến bất ngờ với những độc giả khát khao mong đợi cái Mới trong thơ Việt..
Thoạt đầu, cầm tập thơ TRÂN SA trên tay tôi có cảm giác đang mơ - giấc mơ
của khách yêu thơ. Nhưng đây là sự thật, không nghi ngờ gì nữa một tài năng vừa
xuất hiện, độc đáo khác xa các âm điệu rập khuôn đang mô phỏng nhau trên mấy
trang giấy thiếu máu. Đọc Trân Sa khiến tôi nhớ thơ Nhã Ca trước 1975 do chất
trữ tình nồng thắm cộng vào nội dung bức thiết của nỗi thao thức từ thân phận
làm người. Điều đáng khích lệ khác là tập thơ còn thể hiện một cố gắng sáng tạo
hiếm có luôn tìm cách đi xa hơn những cảm nhận và diễn đạt quen thuộc.
Phải nói ngay là có giới hạn nhất định về
sáng tạo, họặc về mặt ngôn ngữ hay thi từ trong một số bài. Đó là những lúc thi
sĩ phụ họa hơi dễ dãi vài mẩu triết lý bình dân bằng vần điệu như bài Jesus nói, Sakya Muni nói...(t.33) hoặc
để cho thói quen thiếu ý thức của các ngữ điệu thuộc lòng đưa đẩy như bài Đi Về Với Tôi (t.47). Vài điểm khác cần khắc phục là phong cách trần
thuật trực tiếp các sự việc phổ thông hay giảng lý mô phạm như trong bài Tiếng Thét (t.38), Vừa Đi Vừa Ăn Vừa Hát Vừa Cười (t.40)...
Thi ca trên hết là sự tìm tòi những cách nói, cách nghĩ khác với những gì ta
quen gặp từng ngày trên trang báo, trong các nghị luận, diễn văn hay đầu môi của
đám đông lười động não. Nhận định trên đây tuy vậy không làm kém đi giá trị tập
thơ bởi lẽ đa số các bài thơ đều tân kỳ giàu có về mặt ngôn từ và cấu tạo, nổi
bật hơn cả là Mắc Xích, Cỏ, và Ong (t.9) ; Khoảng Không và Gió (t.16)
; Kiến và Bộ Xương của Gide (t.2). Những bài này xứng đáng
có mặt trong bất cứ tuyển tập thơ hiện đại nào vì nỗ lực cách tân không chỉ nằm
trong cách viết, cách cấu tạo mà trên hết là phong thái tư duy bất ngờ, cô đọng,
thông minh cao độ buộc người đọc phải tham dự bằng tất cả óc tim và cảm xúc để
nắm bắt vô vàn liên tưởng được phát sóng từ một từ trường thơ mãnh liệt. Ngay
cách đặt tên những bài thơ ấy cũng đã là ngoại lệ so với ngôn ngữ trong thơ Việt
thường gặp trên các tạp chí văn chương.
*
Thơ
TRÂN SA là một tập hợp trải dài trên dưới
15 năm từ bài đầu viết năm 1973 cho đến mấy bài sau cùng sáng tác cuối 1988. Điều
này giải thích sự phong phú và phức tạp của thế giới thơ Trân Sa, chất chứa đủ
các cung bậc tình tự, cảm xúc và suy tư của một phụ nữ Việt trải qua những bão
táp với cuồng nộ lịch sử những thập niên qua. Noi theo thứ tự năm tháng khi đọc
80 bài thơ trong tập, chúng ta vui mừng chứng kiến sự tiến triễn của một ngòi
bút đầy ý thức và trách nhiệm trong sáng tạo. Điều này không khỏi khiến ta liên
tưởng đến một số thi sĩ Việt đang trên đà suy thoái mặc dù họ từng có thành tựu
đáng kể trước kia. So sánh các sáng tác đầu tay với chùm thơ đặc sắc mấy tháng
cuối năm 1988, ta dễ dàng nhận ra sự chín rộ của một tài năng đang hăng say
khai phá cõi thơ riêng. Giới nghiên cứu thơ phương Tây có nói : Đọc hai
bài thơ khác nhau không đề ngày tháng của một thi nhân người ta có thể chứng
minh bài nào viết trước và bài nào viết sau căn cứ vào sự tôi luyện tay nghề. Đặt
mấy bài của những năm đầu như Xin Tha (t.
50); Từ Giả (t. 3); Hiu Hắt (t.69) hay Hoài
Hương (t. 54) bên cạnh các bài thơ tình cảm của giai đoạn cuối như Bất Tuyệt (t. 104); Gặp Lại (t.76), Rượt Bắt Giữa Mơ Hồ (t.
72)... người đọc chăm chú sẽ nhận ra
thành quả của nhiều năm lao động nghệ thuật, một mặt thăng hoa mất mát khổ đau
thành một triết lý thanh cao, mặt khác hoàn thiện các tiềm năng thẩm mỹ trên
hành trình tự giác của người nghệ sĩ.
Cần nhấn mạnh chữ tự giác vì trong thực
tế sinh hoạt thi ca hải ngoại, yếu tố tối quan trọng này hầu như vắng mặt. Có lẽ
sự khai thác một vài đề tài với cung bậc quen thuộc đến mức nhàm trong một thời
gian dài đã điều kiện hoá tư duy của khá nhiều người làm thơ cũng như sự thưởng
ngoạn của độc giả.
Giá trị tập thơ còn được nâng lên bởi những
vấn đề liên quan mật thiết đến cuộc sống hiện tại mà nhà thơ quan tâm đến. Dù
có thể xếp một số lượng đáng kể trong thi tập vào hai mục thơ tình và thơ đạo (
đề tài phổ biến của thơ Việt hải ngoại), phần quan trọng nhất về mặt tư tưởng và
sáng tạo là thơ thế sự và thơ nhân nghĩa. Không như phần đông các
nhà văn thơ lưu vong quanh quẩn với nỗi niềm quá vãng hoặc mê mải truy tìm một
giải thoát cá nhân bằng phương tiện thẩm mỹ hay tâm linh, thơ Trân Sa là tiếng
kêu gào thống thiết cho các giá trị nhân bản bị chà đạp hay phản bội giữa thế
giới của thù hận, thú tính và dối trá. Đây không phải là mớ diễn văn với tuyên
ngôn trừu tượng cho các nguyên tắc đạo lý mà là sự cảm nghiệm bằng thể xác nỗi
đau đồng loại, là sự xúc động tim óc trước bi kịch kiếp người. Một lần nữa, thơ
ca xuất hiện để kéo ta ra khỏi lưới nhện của truyền thông, màn ảnh tivi và những
hàng tít lớn - bắt chúng ta trực diện với Tiếng Gào (t. 20) và không
cho phép tránh né thảm kịch của lương tâm dân tộc:
Từ
nơi nào tôi đang nghe
Ôi
tiếng khóc giãy giụa đơn độc
...
Em
đang chết em đau đớn
Gã đàn ông đang hiếp em đang giết em
...
Em
trẻ thơ vô tội
...
Sao
lấy đi sự sống của em
Sự thù tạc
bằng vần điệu, thói trang điểm tháng ngày vô vị bằng chữ nghĩa hoa mỹ không cứu
được ai, càng không
thể thay thế quê hương đã mất! Các người cầm bút làm thơ hãy coi chừng! Czeslaw
Milosz trong The Witness of Poetry từng
nói: Các nhà thơ không làm chứng cho thi
ca mà thi ca sẽ làm chứng cho các nhà thơ." Nghĩa là thi ca mới là
nhân chứng và kẻ phán xét những ai cầm bút! Một thi hào lớn khác - Octavio
Paz - cũng phát biểu rằng: "Đặc
tính cốt tủy của thơ là tính xã hội, thơ tái thiết nền móng cho cuộc sống chung
giữa con người." Trân Sa đã viết những câu thơ mạnh và sâu trong chiều
hướng ấy, chẳng hạn bài Ethiopias (t.10)
:
Những
bàn tay chìa ra xương xẩu
Ethiopia
...
Những
đứa trẻ sinh ra để đói khát
Những
mẹ cha hấp hối vẫn làm tình
Ethiopia.
Và
những Ethiopia-s
Ở
một phía người ta vẫn bày rượu thịt
Ở
một phía vũ khí vẫn rầm rộ chở tới
Ethiopia.
Và những Ethiopia-s.
Ruồi nhặng xương da...
Để làm gì ?
Hỡi Ethiopia...
Không phải trích tiên từ mặt trăng rơi xuống
- nhà thơ là con người của thời đại.
Thi nhân có thể mộng mơ
về cái Tuyệt Mỹ, tưởng tượng cõi Cực Lạc ngôn từ để làm giàu cho cuộc đời thường
nhật vốn đã bị thị trường và cơ khí tước đoạt quá nhiều. Nhưng bể khổ trầm luân
của hàng tỉ kiếp người rên siết không cho phép ngòi bút say mê với vườn kiểng
bonsai đẹp mắt và lạc lõng của tứ với vần. Trước hết và trên hết, thời đại này
đòi hỏi ở thi sĩ cũng như ở mọi người cầm bút tinh thần liên đới trách nhiệm
trước các tai họa lịch sử đã và đang giáng xuống cho nhân loại. Bởi lẽ - " không có cá nhân nào là ốc đảo
và đừng bao giờ hỏi tiếng chuông đang khóc gọi hồn ai…”(John Donne)
!
Dù Thơ Trân Sa không hiếm những
bài bi quan, chán chường của kẻ " muốn rút chân khỏi tấn tuồng tâm lý
xã hội tạp nhạp buồn cười " (Nàng. Kẻ Quên, t.80),
lương tri không cho phép Nàng quên. Trong bài mở đầu - phải chăng tác giả
đã đặt nó vào vị trí của bài tuyên ngôn với trọn vẹn ý thức của mình ?
bài thơ mang tên trào lộng đắng cay là Kiến và Bộ Xương của Gide (t.
2), chúng ta được nhắc nhở về sự việc đã bị vùi chôn vào vô thức tập thể bên cạnh
các núi xương nặc danh khác:
Tự Do. Tự Do. Tự Do.
Lời nói dối của Nhân - Loại -
Hôm - Nay
Tất cả mọi người đều nói dối
Tất cả mọi người đều bị cầm tù
Bởi lòng ích kỷ.
Trên mặt đất vắng giá trị nhân nghĩa, con
người còn thua thú vật trong sa mạc. Bởi hệ thống đạo lý nhân văn đối với xã hội -
cộng đồng cũng quan trọng như các mạch máu của hệ thống tuần hoàn trong cơ thể.
Thế mà, thay cho các mối quan hệ trong sáng và chân thật giữa người với người,
giữa cá nhân và tập thể, lối sống vật chất ích kỷ đã giam cầm từng cá thể trong
rọ đạo đức giả, biến xã hội thành Rừng
Loài Người (t. 18) độc ác,
vô luân của loài sinh vật chỉ còn giống nhau ở cái Mặt Nạ Giả Dối (t. 22). Không cần quan điểm kinh tế -
chính trị, nhà thơ đã trực nhận sâu xa nguyên nhân của căn bệnh hiện đại, điều
mà giới triết gia vẫn mệnh danh là sự tha hóa hoặc vong thân khiến con người
đánh mất bản thân mình mà chẳng hay biết.
Hãy lắng nghe Trân Sa nói về “thiên đường đầy nước mắt và bóng tối" bên cạnh "địa ngục đầy đủ tiện nghi"
:
Con người đã biến trần gian thành địa
ngục
Và đã biến địa ngục thành thiên đường
Và không nơi nào họ có thể sống cùng
niềm an vui
Tội lỗi của con người là đày đọa
chính mình
Bằng quá nhiều ảo tưởng.
(Tội Lỗi của Chúng
Ta, t. 94)
Nếu ảo tưởng là tội lỗi thì ích kỷ với đạo đức
giả là tội ác. Được guồng máy và lối sống cơ tâm tiếp sức, chúng sinh sản ra
đám đông cô độc. Bằng "khối óc
nhạy bén sấm chớp của Nàng" nhà thơ nhìn thấy như một liễu ngộ bi
thương "đôi mắt cô đơn sa mạc
khô" :;
Có kẻ đi trên đường
thèm ngã xuống và chết lập tức
vì đôi mắt lạnh ngắt
lây cô đơn vào hắn như cơn sốt rét dữ dội
Cơn sốt rét làm hắn sợ hãi
vì hắn biết nguyên nhân của cô đơn và
tàn phá
phát xuất từ những đôi mắt
mở lớn và lạnh ngắt
( Hay Rót Tình Vào Đôi Mắt Sa Mạc Khô t.96)
Nhịp sống của thị trường và cơ khí đã bịt
tay bịt mắt phần đông chúng ta. Còn ai thao thức lắng nghe những tiếng thét gào
với nhà thơ ? Còn ai hoảng kinh trước cơn điên loạn cơ tâm của thế kỷ
này ?
Cái máy làm hoài không nghỉ
Phát điên
...
tiếng ru của nó rung động tất cả các bộ phận
...
nó nằm rã rượi, âm thầm như một đống sắt vụn.
Con người làm hoài không nghỉ
từ lúc lớn lên cho đến khi chuẩn bị chết ...
Con người phát điên
Rời xưởng trở về nhà
Hắn khóc lóc trong chiếc giường quạnh quẽ ...
Rồi ngủ
(Âm Thầm Điên , t.11 )
Đúng là âm
thầm điên như tất cả chúng ta trong guồng máy; và sự phản kháng còn lại là
tiếng khóc với giấc ngủ cô quạnh !
Nếu như các thông điệp xã hội trên đây đặt
Trân Sa vào đội ngũ các nhà thơ nữ dấn thân như Adrienne Rich , Denise
Levertov... - mức nhạy cảm cao độ trong các bài thơ vừa trích dẫn còn khiến
người đọc nhớ đến dòng thơ "điện giật" của Sylvia Plath hay Anne
Hébert. Chính là cường độ của xúc động đã bảo chứng cho tính chân thật của thi
sĩ, phân biệt dứt khoát với các loại thơ, nhạc giả trá của đám phù thủy văn nghệ
thèm danh lợi.
Bài nhận định khá dông dài này vẫn chưa làm
tròn chức năng. Nếu có điều kiện và thời giờ một dịp khác nhà phê bình sẽ đề cập
và phân tích cụ thể hơn các yếu tố và đặc tính mỹ học của Thơ Trân Sa, với các trích dẫn và đối chiếu cần thiết. Nhưng có lẽ
trong trường hợp thi tập này điều quan trọng cần được nhấn mạnh là nội dung:
cái thông điệp của nhà thơ đang mong đợi những ai đồng thanh khí như vì sao xa
trong một tối sương mù. Mấy dòng chữ khá trễ tràng này là sự chuộc tội của một
kẻ yêu thơ nhưng mắc phải bệnh lười cầm bút. Nhà thơ đã hoàn thành vượt mức
công việc của mình; phần còn lại là tấm lòng và bổn phận của chúng ta - những
độc giả còn mãi rong chơi.
CHÂN
PHƯƠNG
Paris, đầu tháng Tám 1990