Bắt đầu làm thơ khi còn học Harvard, tham gia các nhóm văn nghệ tiền phong ở
New York vào những năm khai mạc thế kỷ 20, hợp tác với tạp chí POETRY do Harriet
Monroe chủ biên từ 1914 cho đến khi qua đời, WALLACE STEVENS (1879-1955) là
một nhà thơ Mỹ hàng đầu của thế kỷ hai mươi. Chịu ảnh hưởng thơ Pháp - đặc biệt
các đỉnh cao của phái Tượng Trưng như Mallarmé, Laforgue và Valéry – ông trở thành
gương mặt lớn trong dòng thơ trí tuệ phương Tây, liên tục đối thoại với triết học hiện
đại như hiện tượng luận hoặc tri giác luận. Thơ văn Wallace Stevens mang vài đặc điểm
chính của chủ nghĩa hiện đại: vừa tra vấn thực tại vừa thử nghiệm khả tính của ngôn ngữ,
đồng thời không quên tháo ráp cái Tôi giả lập với óc tự trào và giễu nhại ( thi pháp này
về sau được ngôn thuyết hậu hiện đại khai thác tối đa trong cố gắng soán ngôi các thế hệ
đàn anh bằng chính thủ pháp sáng tạo của họ !) C.P.
GIAI THOẠI VỀ CHIẾC ĐỘC BÌNH
Tại
Tennessee trên một ngọn đồi
Tôi đặt chiếc
độc bình tròn trĩnh .
Làm tăng cảnh trí hoang dã
Vây quanh con đồi ấy.
Sự hoang dã leo trèo rồi quấn quít chiếc bình,
Nay hết còn man dại.
Trên mặt đất là cái độc bình tròn
Cao to bề thế giữa không trung.
Nó chiếm ngự khắp nơi.
Chẳng giống bất cứ thứ gì ở Tennessee,
Không chứa chim chóc hoặc bụi lùm .
Chiếc bình xám xịt trần trụi.
LEBENSWEISHEITSPIELEREI
*
Yếu dần yếu dần, ánh dương rơi
Trong chiều hôm. Bọn ngạo mạn đám quyền uy
Đã ra đi.
Phần còn lại là những kẻ bất toàn,
Rốt ráo là những con người thật –
Thổ dân của một quả cầu teo tóp.
Sự bần cùng của họ là nỗi nghèo
Của ánh sáng
Vẻ nhạt mờ tinh tú treo lửng lơ...
Cảnh cơ hàn của không gian mùa thu
Từ từ biến thành cái nhìn
Ít lời .
Với trọn vẹn bản chất trung thực
Từng cá nhân chạm đến cảm xúc của ta
giữa sự hoành tráng mốc thếch của diệt vong.
* trong tiếng Đức
( Leben = đời sống + Weisheit= minh triết, nghĩa lý; + Spielerei= trò chơi, chuyện đùa...
) = NGHĨA LÝ CUỘC ĐỜI NHƯ TRÒ CHƠI.
Ý NGHĨA THÔ
TRẦN CỦA SỰ VẬT
Khi lá rụng sạch, ta quay về
Với ý nghĩa thô trần của sự vật. Như thể
Ta đã đi đến cùng óc tưởng tượng
Chết cứng trong một tri kiến bất động.
Cũng khó mà chọn hình dung từ
Cho nỗi lạnh hoang trắng này, nỗi buồn vô cớ này.
Cấu trúc to tát đã hóa làm ngôi nhà thứ cấp.
Trên các mặt sàn sụt giá chẳng còn mũ mão bước qua.
Nhà kính trồng kiểng chưa khi nào cần tô lại như bây
giờ.
Ống khói năm mươi tuổi thì vẹo cong sang bên.
Một nỗ lực phi thường đã thất bại, trò tái diễn
Trong sự lặp đi lặp lại của ruồi với lũ người.
Vậy mà phải tưởng tượng ra
Sự vắng mặt của tưởng tượng. Khoảng ao rộng,
ý nghĩa thô trần của nó không phản chiếu gì ráo,
Lá, bùn, nước như thủy tinh bẩn, phô bày một dạng im lặng,
Thứ im lặng khi con chuột bò ra nhìn ngóng,
Cái ao rộng cùng đám hoa súng héo tàn, mỗi thứ này
Phải được tưởng tượng như một kiến thức không tránh được,
Bắt buộc như một nhu cầu thiết yếu.
Ba bài thơ trên đây được chọn từ
Wallace Stevens, The Collected Poems,
Vintage Books , N.Y. 1982.
CHÂN PHƯƠNG
Boston, 9-29- 2018